1 / 18

MỘT SỐ VẤN ĐỀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN. a) Về việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản hàng năm (sau đây gọi tắt là chương trình lập quy):.

claral
Download Presentation

MỘT SỐ VẤN ĐỀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN

An Image/Link below is provided (as is) to download presentation Download Policy: Content on the Website is provided to you AS IS for your information and personal use and may not be sold / licensed / shared on other websites without getting consent from its author. Content is provided to you AS IS for your information and personal use only. Download presentation by click this link. While downloading, if for some reason you are not able to download a presentation, the publisher may have deleted the file from their server. During download, if you can't get a presentation, the file might be deleted by the publisher.

E N D

Presentation Transcript


  1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN

  2. a) Về việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản hàng năm (sau đây gọi tắt là chương trình lập quy): • Theo qui định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND-UBND và Chỉ thị 27/2001/CT-UB thì xây dựng chương trình lập quy của UBND Thành phố hàng năm là một thủ tục bắt buộc trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản, vì nó sẽ giúp cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản chủ động, nắm bắt trước được công việc và có kế hoạch để tổ chức soạn thảo văn bản.

  3. a) Về việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản hàng năm (sau đây gọi tắt là chương trình lập quy): Tuy nhiên, việc thực hiện qui định này cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục, cụ thể là: - Về đề xuất văn bản đưa vào Chương trình lập quy: + Còn nhiều các sở, ngành, quận huyện chưa thực sự quan tâm đến qui định này nên không đề xuất. + Trong đề xuất chương trình lập quy, các sở, ngành, quận, huyện chưa dự báo được nhu cầu trong thời gian dài mà chủ yếu là những yêu cầu đột xuất. Vì vậy, chưa có kế hoạch để chuẩn bị chu đáo cho công tác soạn thảo làm ảnh hưởng đến chất lượng của văn bản (thường là rất gấp rút về thời gian).

  4. a) Về việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản hàng năm (sau đây gọi tắt là chương trình lập quy): - Về sự chỉ đạo thực hiện chương trình lập quy: • UBND Thành phố chưa quan tâm thường xuyên tới việc ban hành và chỉ đạo thực hiện chương trình lập quy. • Bên cạnh đó, Sở Tư pháp chưa có sự đeo bám và chưa tham mưu có hiệu quả cho UBND Thành phố trong việc chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các sở, ngành triển khai thực hiện chương trình lập quy.

  5. a) Về việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản hàng năm (sau đây gọi tắt là chương trình lập quy): - Về thực hiện chương trình lập quy: Hàng năm, UBND Thành phố ban hành khá nhiều văn bản có hình thức là văn bản quy phạm pháp luật (như đã thống kê tại phần I). Tuy nhiên, tỷ lệ văn bản trong chương trình lập quy được ban hành thấp (năm 2003 là 25%, năm 2005 là 15%, năm 2006 là 17%.

  6. a) Về việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản hàng năm (sau đây gọi tắt là chương trình lập quy): - Về thực hiện chương trình lập quy: Có thể nêu một số nguyên nhân về tình trạng này như sau: + Khối lượng công việc của Thành phố rất lớn và nhiều vấn đề phát sinh từ thực tiễn quản lý đô thị mang tính bức xúc cần phải được tập trung giải quyết kịp thời, áp lực công việc rất lớn và quá tải đối với lãnh đạo UBND các cấp và các sở, ngành. Từ đó, lãnh đạo chưa có sự quán xuyến, chỉ đạo thường xuyên trong công tác xây dựng và ban hành văn bản. + Trong thực tiễn quản lý đã phát sinh những vấn đề mới mà các ngành chưa dự liệu được nên không đề xuất đưa vào chương trình lập quy hoặc do các sở, ngành chưa quan tâm đúng mức..

  7. a) Về việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản hàng năm (sau đây gọi tắt là chương trình lập quy): - Về thực hiện chương trình lập quy: Có thể nêu một số nguyên nhân về tình trạng này như sau: + Cơ sở pháp lý để xây dựng văn bản chưa đầy đủ (một số văn bản của Trung ương có sự thay đổi hoặc trên tinh thần chờ văn bản Trung ương hướng dẫn) nên văn bản của thành phố chưa thể ban hành; + Một số văn bản mặc dù các cơ quan chuyên môn đã soạn thảo nhưng do đây là những văn bản chuyên ngành hoặc quy định về những vấn đề mới, phức tạp, chưa có qui định của pháp luật hoặc có nhưng không phù hợp, do đó đòi hỏi phải thận trọng trong việc ban hành, nhiều dự thảo phải gửi xin ý kiến của Chính phủ, các bộ, ngành nhưng còn nhiều quan điểm khác nhau nên UBND.TP chưa thể ban hành.

  8. a) Về việc lập và thực hiện chương trình xây dựng văn bản hàng năm (sau đây gọi tắt là chương trình lập quy): - Về thực hiện chương trình lập quy: Có thể nêu một số nguyên nhân về tình trạng này như sau: + Nhiều dự thảo văn bản chưa đạt chất lượng, chưa đảm bảo quy trình soạn thảo, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa các ngành, các cấp nên việc soạn thảo, góp ý, thẩm định, hoàn chỉnh dự thảo mất nhiều thời gian, nhiều công sức nhưng không đạt hiệu quả cao. + Chưa có sự đôn đốc, kiểm tra về tiến độ thực hiện công tác soạn thảo văn bản đối với các cơ quan được giao chủ trì soạn thảo văn bản.

  9. b) Về sự phối hợp giữa các sở, ngành trong soạn thảo, góp ý, thẩm định văn bản: Đối với những văn bản có liên quan đến nhiều lĩnh vực thì đòi hỏi trong quá trình soạn thảo phải được sự tham gia của các ngành có liên quan để đảm bảo văn bản khi ban hành phải giải quyết được yêu cầu thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước, đảm bảo tính khả thi.

  10. b) Về sự phối hợp giữa các sở, ngành trong soạn thảo, góp ý, thẩm định văn bản: Tuy nhiên, hiện nay, trong công tác phối hợp cũng còn nhiều vấn đề cần khắc phục như: - Thực tế hiện nay, có nhiều dự thảo được cơ quan soạn thảo trình UBND TP khi chưa lấy ý kiến các cơ quan liên quan nên vẫn còn tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ hoặc không phù hợp với các qui định chuyên ngành và không đạt yêu cầu, từ đó dẫn đến việc UBND TP phải tổ chức nhiều cuộc họp để thảo luận, góp ý các dự thảo hoặc chỉ đạo các cơ quan liên quan góp ý kiến dẫn đến mất nhiều thời gian của Thường trực Ủy ban cũng như của các sở, ngành.

  11. b) Về sự phối hợp giữa các sở, ngành trong soạn thảo, góp ý, thẩm định văn bản: Tuy nhiên, hiện nay, trong công tác phối hợp cũng còn nhiều vấn đề cần khắc phục như: - Thời gian yêu cầu góp ý, thẩm định: hầu hết các dự thảo văn bản do cơ quan soạn thảo gửi yêu cầu góp ý hoặc thẩm định là rất gấp (thông thường chỉ trong vòng từ 3 đến 5 ngày, có nhiều dự thảo chỉ có 1 đến 2 ngày hoặc thậm chí có những dự thảo đến cơ quan được yêu cầu góp ý thì đã hết thời hạn), do đó cơ quan được yêu cầu không thể đảm bảo được về thời gian cũng như chất lượng của ý kiến đóng góp.

  12. b) Về sự phối hợp giữa các sở, ngành trong soạn thảo, góp ý, thẩm định văn bản: - Sự tham gia của các sở, ngành, quận, huyện liên quan chưa tích cực, còn tâm lý coi đó là việc của cơ quan soạn thảo. Thực tế rất nhiều các ý kiến đóng góp chỉ quan tâm đến nội dung phân công công việc cho ngành mình chứ chưa thực sự quan tâm đóng góp toàn diện dự thảo văn bản. - Thời gian góp ý, thẩm định của Sở Tư pháp chưa đảm bảo theo qui định do số lượng văn bản nhiều, đồng thời nhiều dự thảo không đạt chất lượng, không đầy đủ hồ sơ theo qui định nên Sở Tư pháp mất nhiều thời gian để tìm hiểu, làm việc với các cơ quan soạn thảo để nắm bắt thêm thông tin về thực tiễn quản lý của ngành.

  13. c) Về hồ sơ trình dự thảo văn bản: Hầu hết các cơ quan được giao soạn thảo hoặc chủ trì soạn thảo văn bản chưa đảm bảo về hồ sơ trình dự thảo, các dự thảo khi trình không có Tờ trình để thuyết minh về sự cần thiết ban hành văn bản, cơ sở pháp lý và những nội dung chủ yếu của dự thảo hoặc nếu có thì rất sơ sài, không thể hiện được những nội dung cần trình nên cơ quan được yêu cầu góp ý, thẩm định gặp khó khăn vì không nắm bắt hết được những cơ sở pháp lý, những bức xúc, yêu cầu trong công tác quản lý của ngành.

  14. d) Về trình tự, thủ tục thông qua văn bản: • Theo qui định tại Điều 40 Luật Ban hành văn bản của địa phương thì việc xem xét thông qua dự thảo văn bản phải tại phiên họp toàn thể Ủy ban nhân dân và thủ tục thông qua dự thảo văn bản gồm các bước: Đại diện cơ quan soạn thảo trình bày dự thảo; cơ quan tư pháp trình bày báo cáo thẩm định; UBND thảo luận và biểu quyết thông qua. • Tuy nhiên, hiện nay việc thông qua văn bản của UBND Thành phố chưa theo qui định (nhiều dự thảo chưa được thông qua tại phiên họp UBND bằng hình thức biểu quyết).

  15. e) Về chất lượng của dự thảo văn bản: Trong những năm qua, chất lượng của các dự thảo văn bản chưa cao, thậm chí có nhiều dự thảo văn bản mặc dù không phức tạp nhưng soạn thảo không đạt chất lượng nên phải góp ý nhiều lần. Xin nêu một số nguyên nhân sau: • Về khách quan: Nhiều vấn đề bức xúc có tính đặc thù trong quản lý đô thị hoặc những vấn đề phức tạp, nhạy cảm nhưng chưa có qui định của pháp luật hoặc có qui định nhưng không phù hợp, vì vậy việc xây dựng văn bản của địa phương gặp khó khăn, phải tổ chức góp ý nhiều lần, tốn nhiều thời gian, công sức nhưng vẫn chưa thể ban hành được vì phải xin ý kiến của các cơ quan trung ương.

  16. e) Về chất lượng của dự thảo văn bản: • Về chủ quan: - Cơ quan chủ trì soạn thảo chưa quan tâm đúng mức hoặc chưa thể hiện hết tinh thần trách nhiệm đối với dự thảo được giao soạn thảo, cụ thể: + Thiếu sự tổng kết, đánh giá thực tiễn nên chưa đúc kết được những nội dung cần điều chỉnh, từ đó dẫn đến việc nhiều dự thảo văn bản không rõ, thậm chí không xác định được đối tượng, phạm vi điều chỉnh; + Việc tổ chức lấy ý kiến các cơ quan có liên quan chưa hiệu quả do cơ quan soạn thảo chưa chuẩn bị chu đáo như: không có Tờ trình dự thảo; không gửi trước dự thảo hoặc thời gian gửi rất gấp không đủ thời gian để nghiên cứu góp ý.

  17. e) Về chất lượng của dự thảo văn bản: • Về chủ quan: - Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác soạn thảo, góp ý, thẩm định chưa có hiệu quả như đã nêu ở trên. - Trình độ của cán bộ soạn thảo văn bản còn hạn chế do chưa được đào tạo cơ bản về kỹ năng soạn thảo văn bản, chưa nắm bắt được những yêu cầu về pháp chế. - Chưa triển khai thành lập bộ phận pháp chế tại các sở, ngành theo qui định Nghị định 122/2004/NĐ-CP ngày 08/5/2004 của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương./.

  18. XIN CẢM ƠN SỰ CHÚ Ý LẮNG NGHE !

More Related