370 likes | 956 Views
Dân Tộc LA HỦ. Tên tự gọi: La Hủ. Tên gọi khác : Xá lá vàng, Cò Xung, Khù Sung, Kha Quy, Cọ Sọ, Nê Thú. Nhóm địa phương : La Hủ na (đen), La Hủ sư (vàng) và La Hủ phung (trắng). Dân số : 5.319 người. Ngôn ngữ : Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng), gần với Miến hơn.
E N D
DânTộc LA HỦ Tên tự gọi: La Hủ.Tên gọi khác: Xá lá vàng, Cò Xung, Khù Sung, Kha Quy, Cọ Sọ, Nê Thú.Nhóm địa phương: La Hủ na (đen), La Hủ sư (vàng) và La Hủ phung (trắng).Dân số: 5.319 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (ngữ hệ Hán - Tạng), gần với Miến hơn. Trang phục nữ La hủ có nhiều tua chỉ màu trên khăn; nhiều đồng xu trên áo và can ghép tay áo bằng các loại vải nhiều màu. Chiếc mũ của trẻ em không phân biệt trai gái, đều được đính nhiều xu bạc và chỉ màu. Mũ của chúng có liên quan đến hồn vía. Vì vậy họ thường kiêng cho hoặc bán mũ con cái của mình.
DânTộc LÀO Tên tự gọi: Thay, Thay Duồn, Thay Nhuồn.Tên gọi khác: Phu Thay, Phu Lào.Nhóm địa phương: Lào Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi (Lào Nhỏ).Dân số: 9.614 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).Lịch sử: Người Lào có nguồn gốc di cư từ Lào sang. Lợi dụng sức nước để giã gạo là tập quán vốn có của nhiều dân tộc miền núi ở miền Bắc nước ta. Ðây là một dạng cối nước của người Lào ở thượng nguồn sông Mã.
DânTộc LÔ LÔ Tên tự gọi: Lô Lô.Tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn.Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen.Dân số: 3.134 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn. Lịch sử: Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang. Nữ phục Lô lô được trang trí bằng nhiều đồ án hoa văn khác nhau. Nét đặc trưng ở cả hai nhóm là họ dùng nhiều phương pháp đắp ghép vải và ưa dùng các gam màu sặc sỡ.
DânTộc LỰ Tên tự gọi: Lừ, Thay hoặc Thay Lừ.Tên gọi khác: Phù Lừ, Nhuồn, Duồn.Nhóm địa phương: ở Việt Nam chỉ có nhóm Lự Ðen (Lừ Ðăm) ở xã Bản Hon, huyện Phong Thổ, Sìn Hồ (Lai Châu), phân biệt nhóm Lự Trắng (Lừ Khao) ở Síp Song Păn Na (Trung Quốc).Dân số: 3. 684 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Lịch sử: Người Lự đã có mặt ở khu vực Xam Mứn (Ðiện Biên) ít nhất cũng trước thế kỷ XI - XII. Tại đây họ đã xây thành Xam Mứn (Tam Vạn) và khai khẩn nhiều ruộng đồng. Vào thế kỷ chiến tranh người Lự phải phân tán đi khắp nơi, một bộ phận nhỏ chạy lên sinh sống ở vùng núi Phong Thổ, Sìn Hồ. Cũng như các dân tộc nói ngôn ngữ Tày - Thái, người Lự chú trọng giải quyết các nhu cầu về vải. Công việc làm ra vải cho mặc, làm chăn đệm hoàn toàn do phụ nữ đảm nhiệm.
DânTộc MẠ Tên tự gọi: Mạ.Tên gọi khác:Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ.Nhóm địa phương: Mạ Ngăn, Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung.Dân số: 25.436 người.Lịch sử: Người Mạ là cư dân sinh tụ lâu đời ở Tây Nguyên.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Phụ nữ Mạ chuẩn bị con sợi để dệt vải.
DânTộc MẢNG Tên tự gọi: Mảng.Tên gọi khác: Mảng Ư, Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá O.Nhóm địa phương: Mảng Gứng, Mảng Hệ.Dân số:2.247 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam - Á). Nhiều người Mảng biết tiếng Thái. Lịch sử: Xưa nay vùng Nặm Ban (Dum Bai) thuộc xã Nặm Ban, huyện Sìn Hồ tỉnh Lai Châu vẫn được gọi là "quê hương" của người Mảng. Nhiều truyền thuyết, truyện kể còn lưu truyền cho đến ngày nay giúp chúng ta có thể nhận ra người Mảng là một trong những dân cư bản địa ở vùng Tây Bắc. Người Mảng có truyền thống ăn xôi nếp. Xôi nếp được đồ trên ninh, chín dỡ ra rồi cho vào cái cơ đựng cơm đan bằng tre mây. Cơi đựng cơm được đan tròn có nắp đậy và chân đế cao để cách ly giữa đáy và bề mặt đặt giỏ. Người ta sử dụng cơi đựng xôi trong các bữa ăn ở nhà hay trên nương. Khi ăn, cơi để cạnh mâm, dùng tay bốc xôi trong cơi, nắm lại thành nắm nhỏ chấm vào thức ăn.Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
DânTộc MNÔNG Tên tự gọi: Mnông.Nhóm địa phương: Mnông Gar, Mnông Nông, Mnông Chil, Mnông Kuênh, Mnông Rlâm, Mnông Preh, Mnông Prâng, Mnông Ðíp, Mnông Bhiêt, Mnông Sitô, Mnông Bu Ðâng, Mnông Bu Nor, Mnông Bu Ðêh...Dân số: 67.340 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).Lịch sử: Người Mnông là cư dân sinh tụ lâu đời ở miền trung Tây Nguyên nước ta. Cách trang trí như thế này ở mỗi đầu dải khố Mnông luôn là một trong những đặc điểm nổi bật để phân biệt với trang phục cùng loại của các dân tộc khác tại Trường Sơn - Tây Nguyên. Hãy chú ý trước hết đến các cụm tua màu rực rỡ được phân bố ở đôi đường biên, mép khố và sau đó là sự bố cục của các dải hoa văn hẹp trên cả hai chiều ngang dọc.
DânTộc MƯỜNG Tên tự gọi: Mol (hoặc Mon, Moan, Mual).Nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi.Dân số: 914.596 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).Lịch sử:Cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hoà Bình, Thanh Hoá, Phú Thọ... Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong đám ma người Mường. Khi tế quạt ma, những người là dâu trong nhà trong họ của người quá cố phải mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp, gồm: váy đen, cạp mới, áo ngắn, áo chùng trắng, yếm đỏ, hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trong trí tua hạt cườm; phía trước đặt một chiếc ghế mây.
DânTộc NGÁI Tên tự gọi:Sán Ngải.Tên gọi khác: Ngái Hắc Cá, Ngái Lầu Mần, Hẹ, Sín, Ðản, Lê, Xuyến.Dân số: 1.154 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).Lịch sử: Người Ngái có nhiều gốc khác nhau và thiên di tới Việt Nam làm nhiều đợt. Quá trình này diễn ra suốt thời kỳ Trung và Cận đại. Làm những cây rơm để giữ dùng đun nấu dần là một thói quen của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng và trung du. Người Ngái giữ các cây rơm trên dàn cao để tránh mối mục và gia súc phá hoại.
DânTộc NÙNG Tên tự gọi:Nồng.Nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín...Dân số: 705.709 ngườiNgôn ngữ: Tiếng Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), cùng nhóm với tiếng Tày, tiếng Thái, và nhất là tiếng Choang ở Trung Quốc... Lịch sử: Người Nùng phần lớn từ Quảng Tây (Trung Quốc) di cư sang cách đây khoảng 200-300 năm. Trong nhà người Nùng bàn thờ tổ tiên thường để ở gian bên trái. Bàn thờ là nơi tôn nghiêm được trang trí những bức hoành phi và câu đối viết bằng chữ Hán trên nền giấy đỏ. Nhiều nơi còn có bức phùng Slăn đề tên dòng họ.
DânTộcƠ ĐU Tên tự gọi: Ơ Ðu hoặc I Ðu.Tên gọi khác: Tày Hạt (người đói rách).Dân số: 194 người.Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Nay chỉ còn tiếng mẹ đẻ. Hầu hết người Ơ Ðu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái làm công cụ giao tiếp hàng ngày. Lịch sử: Xưa kia người Ơ Ðu cư trú suốt một vùng dọc theo hai con sông Nặm Mộ và Nặm Nơn. Nhưng tập trung nhất vẫn là dọc sông Nặm Nơn. Do nhiều biến cố trong lịch sử liên tiếp xảy ra ở vùng này buộc họ phải rời đi nơi khác hay sống hoà lẫn với các cư dân mới đến. Hiện người Ơ Ðu ở hai bản đông nhất là Xốp Pột và Kim Hoà, xã Kim Ða huyện Tương Dương, Nghệ An. Ở Lào họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa. Chiếc áo tơi liền nón có hai quai đeo vai để che mưa, che nắng là sản phẩm độc đáo của người Ơ Ðu.
DânTộc PÀ THẺN Tên tự gọi: Pà Hưng.Tên gọi khác: Mèo Lài, Mèo Hoa, Mèo Ðỏ, Bát tiên tộc...Dân số:3.680 người.Ngôn ngữ: Thuộc ngữ hệ Hmông-Dao. Lịch sử: Theo truyền thuyết, người Pà Thẻn ở vùng Than Lô (Trung Quốc) đến Việt Nam cách đây khoảng 200-300 năm với câu chuyện vượt biển cùng người Dao. Vốn văn nghệ dân gia phong phú của người Pà Thẻn luôn được giữ gìn và phát triển. Âm nhạc và nhạc cụ đã được nâng cao và biểu diễn trên sân khấu.
DânTộc PHÙ LÁ Tên tự gọi:Lao Va Xơ, Bồ Khô Pạ, Phù Lá.Tên gọi khác: Xá Phó, Cần Thin.Nhóm địa phương: Phù Lá Lão - Bồ Khô Pạ, Phù Lá Ðen, Phù Lá Hán.Dân số: 6.500 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng Miến (ngữ hệ Hán - Tạng), gần với Miến hơn. Lịch sử: Nhóm Phù Lá Lão - Bồ Khô Pạ là cư dân có mặt tương đối sớm ở Tây Bắc nước ta. Các nhóm khác đến muộn hơn, khoảng 200-300 năm trở lại, quá trình hội nhập của nhóm Phù Lá Hán còn tiếp diễn cho tới những năm 40 của thế kỷ XX. Nhóm Phù Lá Lão cho đến nay vẫn duy trì nghề trồng bông dệt vải nhằm thoả mãn nhu cầu về mặc của gia đình. Tranh thủ lúc ở nhà, người phụ nữ bật bông, họ xe sợi lúc trên đường đi nương.
DânTộc PU PÉO Tên tự gọi: Kabeo.Tên gọi khác: La Quả, Penti Lô Lô.Dân số: 382 người.Ngôn ngữ:Tiếng nói thuộc nhóm Ka Ðai (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Người Pu Péo nói giỏi tiếng Hmông, Quan hoả. Lịch sử: Họ đã từng sinh sống lâu đời ở miền cực bắc Việt Nam. Các dân tộc láng giềng đều thừa nhận người Pu Péo là một trong những cư dân khai khẩn ruộng nương đầu tiên ở vùng cực bắc. Cách vấn tóc thành búi ở trán và cài bằng chiếc lược gỗ là một đặc trưng văn hoá Pu Péo.
DânTộc RA GLAI Nhóm địa phương: Tập trung đông nhất ở Khánh Hoà. Rai (ở Hàm Tân - Bình Thuận), Hoang, La Oang (Ðức Trọng - Lâm Ðồng)...Dân số: 71.696 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Pôlynêxia (ngữ hệ Nam Ðảo). Do có sự tiếp xúc với các dân tộc khác quanh vùng nên ở người Ra Glai (Răk Glei) đã xuất hiện tượng song ngữ và đa ngữ. Tiếng phổ thông hiện giữ một vai trò quan trọng, là ngôn ngữ giao tiếp của người dân nơi đây với những dân tộc cận cư khác. Lịch sử: Người Ra Glai đã sinh sống lâu đời ở vùng miền Nam Trung bộ. Có nhiều cách chế thóc thành gạo: xay, cối giã gạo bằng chân, cối giã gạo bằng sức nước, cối giã gạo bằng chày, tay... Người Răk Glei cũng như các dân tộc Tây Nguyên phổ biến giã gạo bằng chày tay.
DânTộc RƠ MĂM Dân số:286 người. Ngôn ngữ:tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố ngôn ngữ của dân tộc Khơ Me và gần gũi với tiếng nói của một số nhóm trong dân tộc Xơ Ðăng. Người Rơ Măm hiện sử dụng thành thạo tiếng nói của nhiều dân tộc, trong đó có tiếng phổ thông. Lịch sử:Những người già làng cho biết họ là cư dân đã sinh sống ở khu vực này từ xa xưa. Ðầu thế kỷ XX dân số của tộc này còn khá đông, phân bố trong 12 làng, ở lẫn với người Gia Lai. Hiện họ chỉ sống tập trung trong một làng. Cho dù những ngôi nhà kiểu cũ không còn nữa, nhưng hàng năm các cột nêu ngày lễ đâm trâu, cái nọ tiếp cái kia vẫn đang và sẽ còn mọc lên với hàng cột vượt lên trên chiều cao của mái nhà, những hàng cây. Ðó là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại ở làng Le của người Rơ Măm hôm nay.
DânTộc SÁN CHAY Tên tự gọi: Sán ChayTên gọi khác: Hờn Bán, Chùng, Trại...Nhóm địa phương: Cao Lan và Sán Chỉ.Dân số: 114.012 người. Ngôn ngữ: Tiếng Cao Lan thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai) còn tiếng Sán Chỉ thuộc nhóm ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán Tạng). Lịch sử: Người Sán Chay từ Trung Quốc di cư sang cách đây khoảng 400 năm. Nhà sàn là ngôi nhà truyền thống của nhiều dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.Nhà của người Sán Chay thương quay lưng lên đồi phía trướcnhìn ra ruộng và xung quanh là vườn cây lưu niên.
DânTộc SÁN DÌU Tên tự gọi: San Déo Nhín (Sơn Dao Nhân).Tên gọi khác: Trại, Trại Ðất, Mán Quần cộc, Mán Váy xẻ...Ngôn ngữ: Người Sán Dìu nói thổ ngữ Hán Quảng Ðông (ngữ hệ Hán - Tạng).Dân số: 91.530 người.Lịch sử: Người Sán Dìu di cư đến Việt Nam khoảng 300 năm nay. Bộ đồ nghề của thày cúng Sán Dìu gồm có án,lệnh bài, sách cúng, tù và và thẻ xin âm dương..
DânTộc SI LA Tên tự gọi: Cù Dề Sừ.Tên gọi khác: Kha Pẻ.Dân số: 594 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, gần với Miến hơn.Lịch sử: Người Si La có nguồn gốc di cư từ Lào sang. Thiếu nữ Si La khi chưa chồng thì vấn tóc quanh đầu và đội khăn trắng giản dị. Khi lấy chồng thì búi tóc lên đỉnh đầu và cuốn đội khăn chàm đen.
DânTộc TÀY Tên gọi khác: Thổ.Dân số: 1.190.342 người.Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Ðàn tính là nhạc cụ được sử dụng phổ biến ở người Tày. Bầu đàn làm bằng vỏ quả bầu khô, cần đàn bằng gỗ, dây đàn bằng tơ. Ðàn có thể có 2 hoặc 3 dây. Ðàn tính thường dùng trong nghi lễ, đệm cho hát then, ngày nay còn dùng biểu diễn trên sân khấu.Hiện vật Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
DânTộc TÀ ÔI Tên gọi khác: Tà Ôi, Pa Cô, Tà Uốt, KanTua, Pa Hy...Nhóm địa phương: Tà Ôi, Pa Cô, Pa Hy.Dân số: 26.044 người. Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), Ít nhiều gần gũi với tiếng Cơ Tu và Bru - Vân Kiều. Giữa các nhóm có một số khác biệt nhỏ về từ vựng. Lịch sử: Người Tà Ôi thuộc lớp dân cư tụ lâu đời ở Trường Sơn. Người Tà Ôi một số nơi giỏi nghề dệt vải sợi bông, hoa văn được tạo bằng sợi màu vàng và bằng cườm trắng. Loại vải có hoa văn cườm được ưa thích.
DânTộc THÁI Tên tự gọi:Tay hoặc ThayTên gọi khác:Tay Thanh, Man Thanh, Tay Mười, Tày Mường, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ.Nhóm địa phương:Ngành Ðen (Tay Ðăm), Ngành trắng (Tay Ðón hoặc Khao).Dân số:1.040.549 người.Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).Lịch sử: Người Thái có cội nguồn ở vùng Đông Nam Á lục địa, tổ tiên xa xưa của người Thái có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Cót xát rất phổ biến ở vùng người Thái, dùng để trải trên sàn trước khi xếp chiếu phục tay và các tấm đệm ngủ lên trên. Cót được đan bằng cây mạy loi, một loại cây thuộc loài tre, nứa mọc trên núi đá vôi cao.
DânTộc THỔ Tên tự gọi: Thổ.Tên gọi khác: Người Nhà làng, Mường, Con Kha, Xá Lá Vàng.Nhóm địa phương: Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Ðan Lai, Ly Hà, Tày Poọng.Dân số: 51.274 người.Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt Mường (ngữ hệ Nam Á). Lịch sử: Ðịa bàn cư trú hiện nay của người Thổ vốn là giao điểm của các luồng di cư xuôi ngược. Do những biến động lịch sử ở những thế kỷ trước, những nhóm người Mường từ miền Tây Thanh Hoá dịch chuyển vào phía Nam gặp gỡ người Việt từ các huyện ven biển Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương ngược lên hoà nhập với cư dân địa phương có thể là gốc Việt cổ ở đây. Những người tha hương cùng chung cảnh ngộ ấy ngày một hoà nhập vào nhau thành một cộng đồng chung dân tộc Thổ. Phong tục rất đa dạng, nhiều khi trái ngược nhau. Ở nhiều dân tộc khác, khăn trắng là dấu hiệu nhà có tang nhưng ở người Thổ và người Mường, khăn trắng được sử dụng hàng ngày để tôn vẻ đẹp của trang phục.
DânTộc VIỆT Tên gọi khác: Kinh.Dân số: Người Kinh chiếm 86,83% dân số toàn quốc.Ngôn ngữ: Người Kinh có tiếng nói và chữ viết riêng. Tiếng Việt nằm trongnhóm ngôn ngữ Việt Mường (ngữ hệ Nam Á). Lịch sử: Tổ tiên người Kinh từ rất xa xưa đã định cư chắc chắn ở Bắc bộ và bắc Trung bộ. Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Kinh luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thờ cúng tổ tiên là hoạt động tinh thần quan trọng bậc nhất của dân tộc Kinh. Có nhiều cách bố trí của bàn thờ. Bàn thờ có thể kê trên giường cao, giường cầu hay bàn. Trên bàn thờ có khám (ngai, ỷ hay ảnh), mâm triện (mâm bồng), mâm dài (đài rượu, đài trầu, kê trên tam sơn) cùng ngũ sự (đỉnh, hai cây nến, hai cây đèn) hay tam sự (đỉnh, hai cây nến), bát hương. Y môn có thể bằng gỗ hay vải.
DânTộc XINH MUN Tên tự gọi: Xinh MunTên gọi khác: Puộc, Xá, PnạNhóm địa phương: Xinh, Mun Dạ, Xinh Mun Nghẹt.Dân số: 10.890 người. Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Người Xinh Mun giỏi tiếng Thái. Lịch sử: Người Xinh Mun đã từng sinh sống lâu đời ở miền Tây Bắc Việt Nam. Bộ nữ phục Xinh Mun tuy đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của y phục Thái, nhưng vẫn giữ cách vấn khăn riêng của mình.
DânTộc XƠ ĐĂNG Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu.Tên gọi khác:Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.Dân số: 96.766 người.Ngôn ngữ:Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm. Lịch sử:Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngôi nhà công cộng (nhà rông) nổi bật trong làng ở nhiều vùng người Xơ Ðăng. Công trình kiến trúc cao, to và đẹp nhất này dùng để tiếp đón khách, hội họp, liên hoan ăn uống, tổ chức một số lễ cúng và cũng là chỗ vui chơi, nghỉ ngơi lúc rỗi rãi của nam giới. Những thanh thiếu niên khi chưa có vợ ra đây ngủ đêm.
DânTộc XTIÊNG Tên gọi khác: Xa Ðiêng hay Xa Chiêng.Nhóm địa phương: Bù Lơ, Bù Ðek (Bù Ðêh), Bù Biêk.Dân số:50.194 người.Ngôn ngữ:thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á) tương đối gần gũi với tiếng Mạ, Mnông, Chơ Ro. Chữ viết hình thành từ trước năm 1975, theo chữ cái La-tinh. Lịch sử:Người Xtiêng sinh tụ lâu đời ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên và miền đông Nam bộ. Trong ngày lễ mừng lúa mới, người Xtiêng thường tổ chức đâm trâu. Khi giết một trâu, họ chỉ dựng đoạn thây cây gạo làm cột. Nếu đâm nhiều trâu, lần đầu gia chủ làm loại cột đơn giản gâng srung, những lần sau họ dựng cột gâng rai với nhiều hoa văn trang trí. Ðây là phần ngọn của cây cột đâm trâu gâng rai.
Tổngkết: Cácnhómdântộc Các dân tộc Việt Nam được xếp vào 8 nhóm ngôn ngữ tộc người khác nhau: a- Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Á: 1. Nhóm ngôn ngữ Việt - Mường: Gồm các dân tộc Kinh, Mường, Thổ, Chứt 2. Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer: Gồm các dân tộc Khmer, Ba- na, Xơ- đăng, Cơ- ho, Hrê, Mnông, Xtiêng, Bru-Vân kiều, Cơ- tu, Gié- Triêng, Mạ, Khơ- mú, Co, Tà- ôi, Chơ- ro, Kháng, Xinh- mun, Mảng, Brâu, Ơ- đu, Rơ-măm. 3. Nhóm ngôn ngữ Tày - Thái: Gồm các dân tộc Tày, Thái, Nùng, Sán Chay, Giáy, Lào, Lự, Bố Y. 4. Nhóm ngôn ngữ H'mông - Dao: Gồm các dân tộc H'mông, Dao, Pà Thẻn. b- Nhóm văn hoá ngôn ngữ Nam Đảo: 5. Nhóm ngôn ngữ Mã lai - Đa đảo: Gồm các dân tộc Chăm, Chu-ru, Gia-rai, Ê-đê, Ra-glai c- Nhóm văn hoá ngôn ngữ Hán Tạng: 6. Nhóm ngôn ngữ Tạng - Mianma: Gồm các dân tộc Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La. 7. Nhóm ngôn ngữ Hán: Gồm các dân tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu. d. Nhóm ngôn ngữ Kadai 8. Nhóm văn hoá ngôn ngữ Kađai:Gồm có các dân tộc Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo.
Bầuơithươnglấybícùng Tuyrằngkhácgiốngnhưngchungmộtgiàn Hìnhảnh & thông tin: TrangđiệntửUỷ Ban DânTộc (www.cema.gov.vn) Nhạc: TiếngSáo; nhạcvàlời: Phạm Minh Tuấn Ca sĩ: Siu Black Cốvấnkỹthuật: TrầnĐìnhHoành Soạnthảo & thiếtkế: TrầnLêTúy-Phượng Washington DC, 26 tháng 8, 2009 www.dotchuoinon.com