760 likes | 983 Views
Phần thứ hai. HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUỐC GIA PHONG KIẾN. Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam Hồ Chí Minh. Cây có gốc mới nẩy cành xanh ngọn Nước có nguồn mới biển rộng sông sâu Chúng ta nguồn gốc từ đâu Có tổ tiên trước về sau có mình
E N D
Phần thứ hai HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THỜI KỲ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN QUỐC GIA PHONG KIẾN
Dân ta phải biết sử ta Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam Hồ Chí Minh Câycógốcmớinẩycànhxanhngọn Nướccónguồnmớibiểnrộngsôngsâu Chúngtanguồngốctừđâu Cótổtiêntrướcvềsaucómình Cadao
Chỉ có tính chân thực và sự công bằng mới tạo nên sự hấp dẫn của sử học. • Không có nó, những tri thức lịch sử sẽ trở thành một thứ khổ sai trí nhớ. Dương Trung Quốc • Sựhiểubiếtvàthôngtuệlịchsửgiúpích • mạnhmẽchohànhđộngchínhtrị • FrancoisMitterrand • CựuTổngthốngPháp
Hành chính Nhà nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV CN Từ thế kỷ X Đến thế kỷ XV THỜI ĐẠI TỰ CHỦ (thời kỳ thống nhất)
CHƯƠNG IIIHÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TỪ THẾ KỶ X ĐẾN THẾ KỶ XV Đây là thời kỳ hình thành và xây dựng nhà nước Phong kiến quân chủ độc lập
Hành chính Nhà nước giai đoạn thành lập và củng cố chính quyền tự chủ (thế kỷ thứ x)
Họ Khúc dựng nghiệp và thực hiện những cải cách hành chính đầu tiên • Cuối thế kỷ thứ IX, sau khi đánh bại Phùng An, quan lại nhà Đường sang cai trị nước ta càng tham tàn, độc ác. Hai lần quân Nam Chiếu xâm chiếm, giết hại hơn 15 vạn dân An Nam nhưng quan quân nhà Đường đều bỏ chạy.
Họ Khúc dựng nghiệp và thực hiện những cải cách hành chính đầu tiên • Năm Giáp Thân (864), Cao Biền đem đại binh sang đánh mới đuổi được quân Nam Chiếu. Vua Đường phong cho Cao Biền làm Tiết độ sứ và đổi An Nam đô hộ Phủ thành TĩnhHải quận Tiết tuấn. Cao Biền cho đắp thành Đại La bên sông Tô Lịch.
Họ Khúc dựng nghiệp và thực hiện những cải cách hành chính đầu tiên • Năm 905, Khúc Thừa Dụ đang làm Hòa Trưởng đất Hồng Châu (Ninh Giang-Hải Dương) đã tổ chức lực lượng tiến đánh thành Tống Bình (Hà Nội), quân Đường thua to chạy về nước.
Họ Khúc dựng nghiệp và thực hiện những cải cách hành chính đầu tiên • Khúc Thừa Dụ chiếm phủ thành, tự xưng là Tiết độ sứ. tuy nhiên ông vẫn khéo léo giữ nguyên bộ máy và danh nghĩa chính quyền cũ để xin “triều đình” cho quyền độc lập thực tế, xóa bỏ thực chất chính quyền đô hộ. nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ là người đứng đầu đất Việt.
Năm Giáp Thân (864), Vua Đường phong cho Cao Biền làm Tiết độ sứ và đổi An Nam đô hộ phủ thành Tĩnh Hải quận Tiết tuấn. Năm 905 Khúc Thừa Dụ chiếm phủ thành, tự xưng là Tiết độ sứ Ngày 7 tháng 2 năm bính dần (906), vua Đường phong cho Khúc Thừa Dụ chức Tĩnh Hải quận Tiết độ sứ, tước “Đông bình chương sự”.
Họ Khúc dựng nghiệp và thực hiện những cải cách hành chính đầu tiên • Ngày 7 tháng 2 năm bính dần (906), vua Đường phong cho Khúc Thừa Dụ chức Tĩnh Hải quận Tiết độ sứ, tước “Đông bình chương sự”. Khúc Thừa Dụ là người đầu tiên sử dụng phép ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo với phong kiến phương Bắc.
Dùng phép ngoại giao • MỀM DẺO • KHÔN KHÉO với phong kiến phương Bắc
Hành chính Nhà nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV CN Từ năm 906 Đến năm 923 THỜI ĐẠI HỌ KHÚC (giành quyền độc lập Tự chủ của đất nước)
Họ Khúc dựng nghiệp và thực hiện những cải cách hành chính đầu tiên • Về hình thức, Khúc Thừa Dụ giữ nguyên bộ máy hành chính của chính quyền đô hộ, song thực chất bên trong, đó là một chính quyền độc lập của nước ta sau ngàn năm Bắc thuộc, quan lại người Trung Quốc đều bị bãi bỏ, các chức vụ đều thay thế bằng người Việt •
Tổ chức các đơn • vị hành chính ở • Trung ương và • địa phương Giữ nguyên bộ máy hành chính của chính quyền đô hộ
Tổ chức các đơn • vị hành chính ở • Trung ương và • địa phương Quan lại người Trung Quốc đều bị bãi bỏ, các chức vụ đều thay thế bằng người Việt
Triều đình Nhà Đường Châu Thứ Sử Châu Thứ Sử HUYỆN (Huyện lệnh) HUYỆN (Huyện lệnh) HUYỆN (Huyện lệnh) Hương Hương trưởng Hương Hương trưởng Hương Hương trưởng Xã Xã trưởng Xã Xã trưởng Xã Xã trưởng
Ngày 23 tháng 7 năm 907 (đinh mão) Khúc Hạo con trai Khúc Thừa Dụ lên thay. • Ngày 01 tháng 9 năm Đinh Mão (907), nhà hậu Lương cũng phải công nhận Khúc Hạo là “An Nam đô hộ, sung tiết độ sứ”. để củng cố, xây dựng một nền tảng độc lập thống nhất của dân tộc, Khúc Hạo đã tiến hành một loạt các cải cách hành chính.
Ngày 7 tháng 2 năm bính dần (906), vua Đường phong cho Khúc Thừa Dụ chức Tĩnh Hải quậnTiết độ sứ,tước “Đông bình chương sự”. • Ngày 23 tháng 7 năm 907 (đinh mão) Khúc Hạo con trai Khuc Thừa Dụ lên thay. Ngày 01 tháng 9 năm Đinh Mão (907), nhà hậu Lương cũng phải công nhận Khúc Hạo là “An Nam đô hộ, sung tiết độ sứ”.
Cải cách hành chính • Khúc Hạo thiết lập một hệ thống cai trị gồm 5 cấp: Lộ, Phủ, Châu, Giáp, Xã. Giáp và xã là cấp hành chính cơ sở đặt dưới sự cai quản của quản Giáp và Phó tư giáp (cấp giáp); chánh lệnh trưởng và tá lệnh trưởng (cấp xã). Như vậy, đến thời Khúc Hạo, cấp hành chính Hương thời nhà Đường đã được đổi thành cấp “Giáp”.
AN NAM LỘ (An Phủ Sứ) Phủ (Tri Phủ) Phủ Châu (Tri Châu) Châu (Tri Châu) Châu (Tri Châu) Giáp (Quản giáp và Phó tư giáp ) Giáp (Quản giáp và Phó tư giáp ) Giáp (Quản giáp và Phó tư giáp ) Xã Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng Xã Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng Xã Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng
Thời Khúc Hạo (Nhà Hậu Lương) Bỏ cấp Hương Hương trưởng Cấp Giáp (Quản giáp và Phó tư giáp ) Xã Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng
Về chính sách quản lý hành chính • Khúc Hạo sửa đổi lại chế độ điền tô, các loại thuế khóa nặng nề của Đô hộ phương Bắc đặt ra.
Chính sách quản lý hành chính Bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho Giáp trưởng trông coi, chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui.
Năm 917 Khúc Hạo mất truyền ngôi cho con là Khúc Thừa Mỹ Năm 923 nhà Nam Hán sai tướng là Lý Khắc Chính đánh nước ta bắt Khúc Thừa Mỹ. Sai Lý Tiến làm Thứ sử nước ta.
Hành chính Nhà nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV CN Từ năm 906 Đến năm 923 THỜI ĐẠI HỌ KHÚC (giành quyền độc lập Tự chủ của đất nước)
Họ Dương khôi phục quyền tự chủ hành chính nước ta dưới triều Ngô • Năm tân Mão (931), Dương Đình Nghệ, là một tướng của Khúc Hạo ở đất Ái Châu (Thanh Hóa), mộ quân đánh đuổi Lý Khắc Chính và Lý Tiến, chiếm lại thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ, làm chủ đất nước trong 6 năm.
Năm tân Mão (931), Dương Đình Nghệ chiếm lại thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ, làm chủ đất nước trong 6 năm.
Hành chính Nhà nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV CN Từ năm 931 Đến năm 936 THỜI ĐẠI HỌ DƯƠNG (Khôi phục quyền Tự chủ của đất nước)
TIỀN NGÔ VƯƠNG (939-965) • Năm kỹ-hợi (939) Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (thuộc huyện Đông Anh, tỉnh PhúcYên). Ngô Vương đặt quan chức, chế triều nghi, định Phục sắc và chỉnh đốn việc chính trị trong nước, chí muốn dựng nghiệp lâu dài, nhưng chỉ làm vua được có 6 năm, đến năm Giáp Thìn (944) thì mất, thọ 47 tuổi.
Hành chính Nhà nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV CN Từ năm 939 Đến năm 944 Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa
Sau chiến thắng Bạch Đằng, đất nước ta lại được bình yên, độc lập. Ngô quyền bãi bỏ chức tiết độ sứ, tự xưng vương đống đô ở Cổ Loa. Để củng cố nền hành chính của Nhà nước độc lập, Ngô quyền đặt ra các chức quan văn võ, quy định lễ nghi triều chính, lập vợ là Dương Thị (con của Dương Đình Nghệ) làm Hoàng Hậu.
Sau chiến thắng Bạch Đằng Ngô Quyền bắt tay xây dựng nền Hành chính để cai quản đất nước Ngô quyền bãi bỏ chức tiết độ sứ, tự xưng vương đống đô ở Cổ Loa
Năm (906) vua Đường phong cho Khúc Thừa Dụ chức Tĩnh Hải quận Tiết độ sứ. Năm (907), nhà hậu Lương công nhận Khúc Hạo là “An Nam đô hộ, sung tiết độ sứ”. Năm (939) Ngô QuyềnBãi bỏ chứcTiết độ sứ • Xưng Vương, đóng đô ở Cổ Loa Năm (931) Dương Đình Nghệ chiếm thành Đại La, tự xưng là Tiết độ sứ, làm chủ đất nước trong 6 năm.
Sự nghiệp xây dựng đất nước đang tiến triển thì Ngô Quyền lâm bệnh, gửi gắm con trai là Ngô Xương Ngập kế vị mình cho em trai Dương Hậu là Dương Tam Kha rồi qua đời, thọ 47 tuổi … Như vậy, nhà Ngô truyền được ba đời, 4 vua, kéo dài 26 năm. Đến Ngô Xương Xí thì nan 12 sứ quân nổi lên giành quyền lực, xâu xé nhau.
THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967) Từ khi Dương tam Kha tiếm vị rồi, những người thổ hào ở các nơi như bọn Trần Lãm, Kiểu công Hãn v.v... đều xướng lên độc lập, xưng là Sứ quân. Về sau Nam tấn vương đã khôi phục được nghiệp cũ, nhưng mà các sứ quân vẫn không chịu về thần phục.
THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967) Bởi vậy nhà vua cứ phải đi đánh dẹp mãi, mà không yên được. Đến khi Nam tấn vương bị giặc bắn chết, thì con Thiên sách vương là Ngô xương Xí lên nối nghiệp, nhưng thế nhà vua lúc ấy suy nhược lắm, không ai phục tùng nữa.
Hành chính Nhà nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV CN Từ năm 945 Đến năm 967 THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)
THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967) Tướng nhà Ngô là Đỗ cảnh-Thạc cũng giữ một chỗ xưng là Sứ-quân. Lúc bấy giờ trong nước có cả thảy 12 Sứ quân, gây ra cảnh nội loạn kéo dài đến hơn 20 năm. Mười hai Sứ-quân là:
THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967) • Ngô xương Xí giữ Bình-kiều (nay là làng Bình-kiều, phủ Khoái-châu, Hưng-yên). 2. Đỗ cảnh Thạc giữ Đỗ-động -giang (thuộc huyện Thanh-oai). 3. Trần Lãm, xưng là Trần Minh-công giữ Bố-hải-khẩu (Kỳ-bố, tỉnh Thái-bình). 4. Kiểu công Hãn, xưng là Kiểu Tam-chế giữ Phong-châu (huyện Bạch-hạc).
THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967) 5. Nguyễn Khoan, xưng là Nguyễn Thái-bình giữ Tam-đái (phủ Vĩnh Tường). 6. Ngô nhật Khánh, xưng là Ngô Lãm-công giữ Đường-lâm (Phúc-thọ, Sơn-tây). 7. Lý Khuê, xưng là Lý Lang-công giữ Siêu-loại (Thuận-thành). 8. Nguyễn thủ Tiệp, xưng là Nguyễn Lịnh-công giữ Tiên-du (Bắc-ninh).
THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967) 9. Lữ Đường, xưng là Lữ Tá-công giữ Tế-giang (Văn-giang, Bắc-ninh). 10. Nguyễn Siêu, xưng là Nguyễn Hữu-công giữ Tây-phù-liệt (Thanh-trì, Hà-đông). 11. Kiểu Thuận, xưng là Kiểu Lịnh-công giữ Hồi-hồ (Cẩm-khê, Sơn-tây). 12. Phạm bạch Hổ, xưng là Phạm Phòng át giữ Đằng-châu (Hưng-yên).
THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967) Những Sứ quân ấy cứ đánh lẫn nhau, làm cho dân gian khổ sở. Sau nhờ có ông Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đem quân đi đánh, mới dẹp xong cái loạn sứ quân, đem giang sơn lại làm một mối,và lập nên cơ nghiệp nhà Đinh vậy.
Nhà Đinh thống nhất đất nước, xây dựng triều đình. Năm Mậu thìn (968), Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình).
Năm (931) Dương Đình Nghệ xưng là Tiết độ sứ, đóng đô thành Đại La. (AN NAM) Năm (939) Ngô Quyền Xưng Vương, đóng đô ở Cổ Loa. (AN NAM) Năm (968), Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, lấy hiệu là Tiên Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình).
NHÀ ĐINH (968-980) 1. Đinh Tiên Hoàng 2. Đinh Phế Đế
Hành chính Nhà nước từ thế kỷ X đến thế kỷ XV CN Từ năm 968 Đến năm 980 • NHÀ ĐINH (968-980) • Quốc hiệu Đại Cồ Việt • Đinh Tiên-hoàng 2. Đinh Phế-đế
Về xây dựng triều chính • Đinh Tiên Hoàng Đế xây dựng cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn làm thập đạo tướng quân, phong cho con trai là Đinh Liễn làm Nam Việt Vương, con thứ là Đinh Toàn làm Vệ Vương. Ngô Chân Lưu được hiệu là Khuông Việt Thái Sư.
Hành chính ở nước ta thời đinh Đinh Tiên Hoàng CN Từ năm 968 Đến năm 980 • NHÀ ĐINH • Quốc hiệu Đại Cồ Việt • Đinh Tiên Hoàng 2. Đinh Phế-đế Đóng đô HOA LƯ Kinh đô