210 likes | 456 Views
Biến động mức sinh và đáp ứng chính sách ở Ấn Độ. GS. K.S. James Viện nghiên cứu Kinh tế và Xã Hội Bangalore. Biến động mức sinh ở Ấn Độ. Trong những năm gần đây, Ấn Độ đã và đang trải qua giai đoạn biến động nhân khẩu học rất lớn Năm 2010, Tổng tỷ suất sinh đạt 2,5 con trên 1 phụ nữ
E N D
Biến động mức sinh và đáp ứng chính sách ở Ấn Độ GS. K.S. James Viện nghiên cứu Kinh tế và Xã Hội Bangalore
Biến động mức sinh ở Ấn Độ • Trong những năm gần đây, Ấn Độ đã và đang trải qua giai đoạn biến động nhân khẩu học rất lớn • Năm 2010, Tổng tỷ suất sinh đạt 2,5 con trên 1 phụ nữ • Với tốc độ này, đến giữa thập kỷ, Ấn Độ sẽ đạt mức sinh thay thế • Do vậy, hiện nay bức tranh về mức sinh sẽ khả quan hơn.
Hàm ý khi mức sinh biến động • Biến động nhân khẩu học ảnh hưởng sâu rộng đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, và hành vi, vv trong tương lai. • Đòi hỏi phải có chính sách thích ứng và tạo môi trường thuận lợi. • Điều này chứng tỏ những biến động nhân khẩu học có thể có lợi đối với bất kỳ quốc gia nào.
Mục tiêu • Phân tích xu hướng và mô hình mức sinh nhằm hiểu được định hướng của mức sinh ở Ấn Độ trong tương lai • Phân tích đánh giá về khung chính sách hiện hành • Cân nhắc có nên áp dụng một hướng tiếp cận chính sách khác dựa trên đặc trưng của quá trình biến đổi nhân khẩu học trong nước
Tốc độ biến động mức sinh • Tổng tỷ suất sinh (TFR) dao động trong khoảng 5,2 con/ phụ nữ đầu những năm thập kỷ 1970 và giảm xuống còn 2,5 con/ phụ nữ vào năm 2010. • Đến năm 2010, dân số thành thị, chiếm khoảng 30% tổng dân số cả nước, đã đạt được mức sinh thay thế • Tổng tỷ suất sinh giảm xuống còn 1,4%/ từ năm 1970-1990 và dưới 1,9%/năm từ năm 1991.
Tính không đồng nhất của mức sinh • Ấn Độ chứng kiến mức sinh biến động không đồng nhất • Trong số 20 bang chính của Ấn Độ, có 10 bang, chiếm 40% tổng dân số cả nước đã đạt được mức sinh thay thế • 02 bang khác tiến gần đến mức sinh thay thế • Tuy nhiên, các bang lớn ở miền Bắc Ấn Độ vẫn còn cách xa mức sinh thay thế
Tổng tỷ suất sinh (TFR) và Tổng Tỷ suất sinh mong muốn theo các bang chính ở Ấn Độ
Mong muốn có con • Giảm đáng kể số con mong muốn trong cả nước • Số con mong muốn đạt mức sinh thay thế • Tỷ suất sinh mong muốn dao động từ 1,4 con/ phụ nữ ở Bang Tamil Nadu đến 2,4 con/ phụ nữ ở bang Bihar trong giai đoạn 2005 – 2006 • Chỉ có 3 bang có mức sinh mong muốn vượt mức sinh thay thế
Mức sinh trong tương lai • Mức sinh ở Ấn Độ có thể đạt dưới mức sinh thay thế không? • Mô hình hôn nhân - một trong những biện pháp chính duy trì mức sinh dưới mức sinh thay thế - đã không có thay đổi lớn nào trên toàn quốc. • Hôn nhân vẫn là mô hình phổ biến, hiếm sinh con ngoài hôn nhân và tỷ lệ ly hôn không đáng kể và ổn định
Triển vọng về mức sinh trong tương lai (Ba tình huống dựa trên bằng chứng thực tế) • Mức sinh ở các vùng có mức sinh thấp nhất (giả sử mức sinh sẽ giảm xuống mức sinh thấp nhất hiện tại) • Mức sinh và giáo dục (với sự chuyển đổi trong giáo dục, mức sinh sẽ giảm ở nhóm có trình độ học vấn cao) • Phân tích hồi quy (liệu các vùng với mức sinh thấp sẽ có tỷ lệ giảm sinh ít)
Mức sinh ở những vùng có mức sinh thấp nhất (Tỷ lệ phần trăm của các huyện được phân loại dựa trên tổng tỷ suất sinh, Ấn Độ, năm 2011)
Mức sinh và giáo dục TFR của nhóm phụ nữ có trình độ giáo dục cao trên mức X ở các bang tại Ấn Độ, năm 2010
Triển vọng về mức sinh trong tương lai • Tất cả 3 tình huống trên cho thấy mức sinh ở Ấn Độ có thể giảm khá nhiều dưới mức sinh thay thế • Mặc dù trên thực tế, biến động xã hội là một phần tất yếu khi mức sinh thấp, nhưng điều này không xảy ra ở Ấn Độ. • Ấn Độ có thể phải thực hiện các chính sách riêng nhằm đáp ứng những đặc trưng của biến động mức sinh.
Chính sách dân số ở Ấn Độ: Thông tin lịch sử • Dân số gia tăng nhanh được coi là một vấn đề phát triển chính ở Ấn Độ trong thế kỷ vừa qua • Điều này tạo đà cùng với các cuộc tổng điều tra được tiến hành trong thời kỳ sau khi đất nước giành độc lập • Do vậy chương trình kế hoạch hóa gia đình được coi là một chiến lược kiểm soát dân số quan trọng. • Trong những năm thập kỷ 1970, các nhà lãnh đạo chính trị bị buộc tội cưỡng ép các gia đình phải chấp nhận biện pháp triệt sản.
Hai mối quan tâm trong những năm thập kỷ 1980 • Mối quan tâm thứ nhất là các mục tiêu giảm sinh liên tiếp không đạt được theo kế hoạch 5 năm một lần • Trong những năm thập kỷ 1980, tại cùng một thời điểm, có nhiều áp lực lớn từ các tổ chức xã hội dân sự và các tổ chức phi chính phủ nhằm cải thiện chất lượng và phổ cập dịch vụ để đáp ứng nhu cầu sức khỏe sinh sản mà không cần phụ thuộc nhiều vào các chính sách khen thưởng/ không khen thưởng.
Những nguyên nhân từ phía Chính phủ • Chính phủ Ấn Độ vẫn cần có một chương trình kế hoạch hóa gia đình vững mạnh vì nhiều nguyên nhân • Đầu tiên, biến động mức sinh của Ấn Độ không phải do sự phát triển kinh tế - xã hội mà do sự can thiệp quá mạnh của chính phủ • Thứ hai, nhu cầu về phương pháp tránh thai không được đáp ứng vẫn còn tồn tại đáng kể trên cả nước. • Thứ ba, TFR tại một nửa số bang ở Ấn Độ vẫn còn khá cao
Nhu cầu về các BPTT không được đáp ứng • Từ năm 2005-06, khoảng 12,8% cặp vợ chồng có nhu cầu không được đáp ứng • Tỷ lệ này cao đáng kể ở nhóm người nghèo hơn (chiếm 18,2 %) so với nhóm người giàu nhất (chiếm 8,1 %) • Chương trình kế hoạch hóa gia đình vững mạnh, và miễn phí là nhân tố quan trọng làm giảm mức sinh • Cần nhấn mạnh vai trò của khoảng cách giữa những lần sinh, đặc biệt là nhóm đối tượng nghèo
Chính sách quốc gia về dân số – năm 2000 • Chính sách quốc gia về dân số “khẳng định công dân đồng thuận và lựa chọn tự nguyện trên cơ sở được tư vấn; và cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản” • Tập trung hướng tiếp cận không nhằm vào các mục tiêu trong việc quản lý các dịch vụ KHHGĐ • Áp dụng chính sách khuyến khích quy mô gia đình nhỏ (tuy nhiên những biện pháp này áp dụng cho trẻ em gái, phụ nữ trong độ tuổi kết hôn từ 19 tuổi, vv)
Thảo luận • Chính sách dân số của Ấn Độ quan tâm quá mức đến giảm sinh • Điều quan trọng và cần thiết chính là giai đoạn biến động mức sinh và nhu cầu đáp ứng trên cả nước. • Tuy nhiên, chính sách này đã không hiểu rằng tác động của việc mức sinh biến đổi nhanh chóng ảnh hưởng đến xã hội và nền kinh tế. • Có mối liên kết chặt chẽ giữa biến động nhân khẩu học, giáo dục, sự tham gia vào lực lượng lao động, di cư, tình trạng xã hội bất ổn, vv những yếu tố này cần được phân tích chung mà không nên tách riêng.